Trung Quốc tranh chấp chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam như thế nào ?
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Lịch sử luôn ghi nhận Quần đảo Hoàng Sa và Trường sa là của Việt Nam tuy nhiên, vào tháng 4 năm 1956, Trung Quốc lợi dụng cơ hội Pháp rút khỏi đó, bí mật đổ bộ chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Tháng 1 năm 1974, khi chế độ Sài Gòn đang trên đà sụp đổ, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm cụm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa và sau đó chiếm toàn bộ 23 đảo , bãi đá và cát thuộc quần đảo này.
Còn ở Trường Sa, trong khi Việt Nam gặp khó khăn lớn, vào tháng 3 năm 1988 Trung Quốc đã dùng vũ lực, chiếm đóng trái phép bãi Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng với một số bãi đá ngầm ở quần đảo này. Đến năm 1992, họ lại chiếm thêm Bãi Vạn An trên thềm lục địa của Việt Nam. Vào tháng 2 năm 1995, Trung Quốc bí mật chiếm bãi đá thuộc nhóm đảo Vành Khăn (Mischief Reef) do Philippines quản lý. Như vậy, hiện đang tồn tại tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa giữa giữa 4 nước 5 bên, gồm có Việt Nam, Trung Quốc lục địa, Đài Loan, Philippines, Malaysia. Ngoài hai quần đảo trên, tranh chấp Biển Đông còn mở rộng ra cả vùng biển phía Nam đảo Trường Sa giữa 6 nước 7 bên gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc coi vùng biển này nằm trong đường biên giới “lưỡi bò” là vùng nước lịch sử do họ đơn phương tuyên bố sở hữu từ cuối năm 1947. Từ sau 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng có những tuyên bố tương tự.
Mặc dù Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung Hoa là một biển rìa Tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên, địa danh biển không có ý nghĩa quyết định pháp lý về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận.
Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên có tên gọi là biển Nam Trung Hoa.
Tiếng Anh : The South China Sea và tiếng Pháp: Mer de Chine Méridionale . Việt Nam gọi là Biển Đông vì ở phía Đông của dải đất chữ S.
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982.
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
2. Phân kỳ 200 năm – 4 quãng thời gian tranh chấp :
- Thời gian từ đầu Thế kỷ XIX đến đầu Thế kỷ XX 100 năm . 1816 – 1909.Thời kỳ Phong kiến Viet Nam và Pháp – công bố chủ quyền. –Sóng yên biển lặng.
- Thời gian từ 1909 đến 1949 : 40 năm ảnh hưởng của Trung hoa Dân quốc
- Thời gian từ 1949 đến 2009 : 60 năm tranh chấp trong đó nổi lên các sự kiện lien quan giữa 2 nước cùng “phe XHCN”
- Thời gian từ 2010 đến nay : 3 năm sôi động phức tạp nhất .
a. Thời gian 100 năm khoảng từ đầu TK XIX đến đầu TK XX
- Trong 100 năm này tính chất cuộc tranh chấp chủ yếu là công bố chủ quyền . Năm 1802 Triều đình Nhà Nguyễn được Thành lập – Năm 1816 Hoàng đế Gia Long Tuyên bố chủ quyền với Quần đảo Hoàng Sa . Nếu tính từ Thời gian này đến năm 1909 khoảng 100 năm thì có 6 sự kiện xảy ra tranh chấp – (15 , 20 năm có 1 sự kiện) trong đó chỉ có 1 lần Chính quyền địa phương Quảng Đông Trung Quốc cử đội khảo sát đến Hoàng Sa, còn lại chủ yếu là do Nhà nước Phong kiến Việt Nam tiến hành ( thám hiểm, điều quân, tôn vinh thủy binh...)
b. Thời gian từ 1909 đến 1949 – 40 năm trước khi Nước CH ND Trung Hoa thành lập - thì cũng chỉ có khoảng 10 sự kiện xảy ra chủ yếu do Pháp và Nhật Bản tuyên bố chủ quyền khi đóng quân viễn chinh tại một số đảo ( 6/10 sự kiện). Chiến tranh Thế giới thư 2 kết thúc, Nhật và Pháp rời quân ở các đảo này thì Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch cho quân đến khảo sát và chiếm đóng một vài đảo . Đặc biệt sau khi bị đánh đuổi khỏi lục địa, tàn quân của Trung Hoa dân quốc cũng rút khỏi các đảo này, co cụm về Đài Loan.
Trong thời gian 40 năm trước khi Nước CHND Trung Hoa ra đời, Trung Hoa Dân Quốc ban bố “đường lưỡi bò” vào năm 1948. Như vậy tính chất tranh chấp cũng chủ yếu là các tuyên bố về chủ quyền. Tần số sự kiện cũng không cao, ( 4, 5 năm có 1 sự kiện ) xảy ra dồn dập chủ yếu vào thời điểm sau Đại chiến 2.
c. Thời gian từ 1949 đến 2009 – Thời điểm Thống kê có thể được.
Đây là 60 năm tồn tại 2 nhà nước XHCN, cùng 1 thể chế chính trị, cùng “chung một Biển Đông” nhưng lại là 2 cách hành xử rất khác nhau về chủ quyền trên Biển Đông nói chung và Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng.
Thời gian này đã xẩy ra khoảng 100 sự kiện (hơn 1 sự kiện mỗi năm)
Trung Quốc ra sách trắng 2 lần liên tục trong 2 năm : 30/7/1979, và1980
Việt Nam công bố sách trắng (28/9/1979)
Tính chất không dừng lại ở công bố chủ quyền và sách trắng mà là các cuộc đánh chiếm bằng quân đội.Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc dùng Hải quân và Không quân chiếm toàn bộ Hoàng Sa, tàn sát đẫm máu không những ở hải đảo mà còn xảy ra cả chiến tranh trên biên giới ác liệt các năm 1979 , 1988...
Từ 14/3/1988 đến ngày 6/4/1988, liên tục hơn 3 tuần quân TQ đánh chìm 2 tàu lớn của Hải quânND VN, làm chết và bị thương 20 người Việt, 74 người mất tích .
Tổng Bí thư ĐCSTQ – Hồ Diệu Bang trực tiếp thị sát Hoàng Sa 1987.
Trung Quốc đặt tên, đặt bia mốc chủ quyền trên các đảo đã chiếm - 1989
1990 Hội nghị Thành Đô bình thường hóa quan hệ 2 nước...
1990 đên 1999 14 lần TQ cho thăm dò khai thác dầu khí, ký kết các hợp đồng khai thác với các nhà thầu bắc MỸ Tây Âu, đưa dàn khoan Nam Hải – 02vào Vịnh Bắc Bộ...
Đụng độ cả với hải quân Philipin gần Bãi cạn Scarborough. Phi lipin bắt giữu tàu cá , tàu nghiên cứu hải dương ( cả ngư dân và “nhà nghiên cứu”. Bắn sung cảnh cáo và bắn hạ các cột mốc do TQ dựng lên. (Năm 1996)
Từ 1990 đến nay TQ đơn phương ra lệnh cấm các nước đánh băt cá từ vĩ tuyến 12.
2007 – 2008 TQ thành lập Thành phố hành chính cấp huyệnTam Sa – xây dựng căn cứ tàu ngậm lớn - khởi đầu biểu tình phản đối TQ ở VN.
2009 Trung Quốc gây sức ép, vấn đề Biển Đông không được thảo luận tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN ( Cha - am – Thái Lan )
Còn tiếp
GS.TS Nguyễn Vi Khải Nguồn: Tamnhin.net