Anh cu Nghệ quê choa
Ảnh minh họa: Internet |
Đã nhiều lần tôi định viết về anh cu Nghệ, nhưng rồi bận liên miên với quá nhiều việc trong cuộc sống bộn bề, lại quên. Hôm nay ký ức chợt ùa về nhắc nhở tôi nhớ tới quê hương, đánh thức tôi một vùng ký ức tưởng như đã ngủ quên của miền quê huyền diệu. Và tôi ngồi bên bàn phím, viết về anh cu Nghệ của tôi. Dân làng Nam Giang quê choa vẫn gọi tên thân thương mộc mạc của anh, Anh cu Nghệ, mặc dù trước đây anh về quê với chiếc xe đạp Eska, còn bây giờ về bằng xe ôtô riêng thời thượng.
Gia đình anh vào loại hiếm muộn, nên cha mẹ chạy thầy, chạy thuốc khắp nơi mãi mới được mụn con khi bà đã cứng tuổi, khi anh anh Nghệ ra đời lại non tháng, nhẹ cân. Vì lẽ đó cha mẹ anh đặt tên là Nhỏ, với hi vọng dễ nuôi. Thế rồi như thấu hiểu lòng mong mỏi nên bà mụ nặn Nhỏ hai là anh và Nhỏ ba lại theo các anh lần lượt chào đời. Vì “tam nam bất phú” nên mẹ anh lại cố đẻ tiếp, thêm được hai em gái lấy tên là o Tứ và o Ngũ.
Lúc ấy thời cuộc khó khăn bao trùm cả đất nước, nhà anh cũng không là ngoại lệ. Tan học về tới nhà, bọn trẻ cuống ca, cuống quýt nhét cái gì đó vào bụng, khi là củ khoai lang luộc, khi là bát cơm nguội rồi đi chăn trâu, đi làm cỏ cho lúa, cho hoa màu, đó là công việc thường ngày của thời trẻ. Trước nhà anh là dòng Sông Lam, phía sau là Rú Cấm (núi này hồi Pháp thuộc cấm không cho con người vào chặt cây đốn củi, để nguyên sinh như vậy cho chim thú tự nhiên phát triển), giữa Rú Cấm có một con suối chảy róc rách tạo nên những vũng nước như bể bơi, nước trong veo, mát lạnh. Nơi ấy là nơi cho tuổi thơ anh vùng vẫy mỗi khi trời chuyển sang mùa hè, đón những cơn gió Lào nơi chảo lửa. Ngoài Rú Cấm, thì Sông Lam cũng là một vùng ký ức với biết bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ mà cho đến bây giờ anh vẫn chưa thể nào quên được. Nhờ phù sa Sông Lam nên đất quê anh rất màu mỡ, các loài rau màu trồng dọc bờ sông không cần phải bón phân vẫn tốt tươi đơm hoa kết trái. Giữa sông có một bãi nổi, đó là điểm tập kết của những đứa trẻ chăn trâu mỗi buổi chiều buông, chúng ở đó cho trâu, bò ăn những bãi cỏ non xanh mơn man vô tận, nằm trên lưng trâu nhìn ngắm sông núi, trời xanh, đếm từng bầy chim chiền chiện bay vút lên không trung hót vang cả vùng trời và đón gió mát từ Sông Lam thổi lên những khuôn mặt đen cháy, mái tóc hoe vàng thơm mùi nắng gió. Thời gian rỗi, sau khi làm đồng về thế nào cũng có những cuộc đấu bóng sôi nổi. Quả bóng buổi đầu có thể chỉ là quả bưởi héo, sang hơn thì là quả bóng nhựa rồi bóng cao su nhưng hai đội, khi thì đội chăn trâu đá với đội chăn bò, khi lại là đội xóm trên đá với đội xóm dưới, luôn luôn có tỷ số, không biết hòa là gì. Khát nước thì đã có bạn dùng chiếc nón xuống sông hoặc suối múc lên, nâng cao nón lên, dùi một lỗ cho chảy ra như vòi nước hiện đại và các cầu thủ nhí chỉ còn việc xếp hàng há mồm ra và uống ừng ực đến khi hết khát thì thôi.
Anh nói mỗi khi nhớ về ký ức là lại cảm thấy rộn lên một cảm giác như được gió của Sông Lam ve vuốt, ngửi được mùi thơm ngan ngát của cỏ mật, đất bãi.
Nhưng vẫn là thiếu sót nếu như ký ức bị bỏ quên về mùa lũ trên Sông Lam, đó mới là điều không thể nào thiếu được với những người dân quê choa. Lạ ở chỗ, mùa lũ lụt đối với các làng bên cạnh là thiên tai, nhưng lại là lộc trời đối với người dân làng anh. Nước lên, cơ man nào là củi, gỗ từ trên rừng trôi thành từng bè, tầng tầng lớp lớp trôi về. Lũ trẻ cùng dân làng chỉ cần dùng thuyền nan ra kéo chúng vào bờ, phơi khô, làm củi. Những ngày ấy là những ngày làm việc cật lực nhất, có khi một ngày có thể kiếm được số củi bằng cả tháng vào rừng. Có khi chỉ cần vớt độ bốn năm ngày là có gỗ thoải mái làm nhà và củi thì chất thành từng đống to ụ, đun nấu, sưởi ấm cả mùa đông, đôi lúc dùng cả năm không hết. Những ngày vớt củi lụt vui như trẩy hội, mọi người hò reo, động viên nhau, cùng nhau vớt củi, quên hết cả mệt mỏi nhọc nhằn. Mùa lụt không chỉ là mùa vớt củi, mà mùa lụt còn là mùa đánh bắt cá Sông Lam. Lụt về nước ngập mênh mông bờ bãi, cá bơi từng đàn vào các bãi rau, bãi cỏ thả trâu, khi ấy người làng có thể bắt cá bằng mọi cách, mọi kiểu sáng tạo, với kẻ lười thì chỉ cần chiếc cần câu đơn giản bằng nhánh tre với lưỡi câu ngoắc mồi giun đã đủ có cá ăn cho cả gia đình. Khi nước rút khá nhanh thì những những vũng đất thấp trước đó trở thành ao và cá theo nước sông vào chưa bơi ra kịp, còn lại trong đó rất nhiều, chỉ cần tát cạn đi là có thể bắt được cả rổ cá tươi mà không phải mất nhiều công nhọc sức.
Khi anh đến tuổi đi học cũng là lúc những lớp xóa mù chữ cho người dân được mở ra ở khắp mọi nơi, và cha anh trở thành thầy giáo bình dân học vụ như một điều đương nhiên, bởi trong làng cha anh biết chữ nho và chữ quốc ngữ. Cha anh ngoài công việc của ông giáo làng ra còn phải trông thêm cửa hàng thuốc bắc do ông nội để lại. Cũng may, ở làng có ông thầy lang Phằng rất nổi tiếng bắt mạch, kê đơn nên nhờ thế cửa hàng thuốc của cha anh luôn có khách, từ đấy kinh tế của gia đình anh cũng không đến nỗi nào. Anh em anh được cha mẹ chăm lo cho sự học rất sớm, và nhờ gien Ông ngoại (mẹ anh bảo thế. Ông ngoại là Lý trưởng, nhìn xa, trông rộng hầu hết mọi vấn đề, nhưng cũng chính vì lẽ đó mà mấy anh em anh khi đi học phải giấu kín về người ông đáng kính không dám khai trong lý lịch!). Ơn trời, nhờ gien ấy, mấy anh chị em anh đứa nào cũng giỏi cả toán lẫn văn. Rồi đợt cải cách ruộng đất xảy ra, gia đình anh dù chẳng giàu có gì nhưng với ngôi nhà ngói năm gian hai chái, cột kèo toàn lim, so với trong làng, thế cũng là đủ để cho đội cải cách ruộng đất quy là địa chủ. Nhưng “trong họa có phúc". Vì diện tích ruộng, vườn chưa đủ “định mức” nên gia đình chỉ bị quy cho là Phú nông, sau khi sửa sai thành Trung nông, chưa thuộc giai cấp bóc lột. Như có sự đẩy đưa của số phận, sau khi tốt nghiệp phổ thông anh may mắn có tên cùng với hai mươi người bạn trên toàn miền Bắc vinh dự tập trung ở Hà nội để đi học đại học ở nước ngoài. Sau này Lục, bạn học cùng lớp 10, vì học yếu môn Toán nên Đoàn trường phân công anh kèm cặp, là con ông chủ tịch xã nói cho mới biết rằng, nhờ cha nó không truy Ông ngoại anh là Lý trưởng nên mới thoát. Thật là hú hồn! Và anh chỉ còn biết thầm cảm ơn ông cố chủ tịch xã tốt bụng.
Sau mấy năm đi học xứ người trở về thì quê hương đã khác xưa nhiều quá. Nhà đã di chuyển từ ngoài bờ sông vào sườn núi, nơi mà ngày xưa thường để thả trâu, cột bò. Rú Cấm khi xưa có nhiều cây cổ thụ, khi còn bé không dám vào vì cây cối chằng chịt, vào rồi sẽ không biết đường ra. Rú Cấm trước đây còn có nhiều động vật như khỉ, hươu, nai, rắn, trăn,v.v. vào đấy rất nguy hiểm. Thế mà Rú Cấm khi anh trở về đã là một đồi trọc, chỉ còn leo lắt mấy cây bạch đàn xơ xác. Giữa hai ngọn núi có một con suối nước chảy róc rách ngày đêm, bây giờ khô cong. Nhánh sông phụ làm nên bãi nổi bây giờ chỉ còn là một giòng suối cạn trong mùa lũ. Nhìn cảnh núi sông bị tàn phá mà xót xa cho những ký ức của tuổi thơ. Quê anh bây giờ khấm khá hơn với những ngôi nhà ngói khang trang san sát nhau, có cả nhà hai tầng, nhưng cảm tình cảm láng giềng thì chẳng còn giống như ngày trước, không thấy mấy khi người dân quê tụ tập như thuở xưa ngoài xóm bãi, chuyện giao lưu xóm giềng với nhau cũng chẳng thấy mặn mà. Những đứa trẻ không còn ngồi lưng trâu với mái tóc cháy vàng ngai ngái mùi bùn. Làng thôn vắng vẻ chỉ còn những người già và trẻ nhỏ, người lớn tản mát đi tứ xứ mong tìm cho mình một việc làm phù hợp.
Anh Nghệ thường tâm sự: Anh có hai lần gặp may làm thay đổi đời anh. Lần đầu khi học xong phổ thông được bố trí đi học Nông nghiệp ở Cuba. Nhưng vì thời ấy đang chiến tranh nên phải đi bộ ra tận Thanh hóa mới có tàu ra Hà nội. Đến Hà nội thì đã muộn mất mấy ngày và đoàn Cuba đã đi rồi nên anh được chuyển sang đi học ở Tiệp. Sau khi tốt nghiệp về nước, anh được phân công về Z137 một đơn vị quốc phòng. Sau hòa bình anh được xuất ngũ và quay lại Séc làm phiên dịch. Sau khi hết hạn hợp đồng lao động được một anh bạn đồng hương làm ở ban quản lý lao động mua cho chiếc vé khứ hồi và dặn: nếu về nước mà vẫn thích Séc thì dùng vé khứ hồi mà sang lại. Đây là vận may lần thứ hai, anh quay lại Séc và nhờ bạn bè giúp đỡ anh về vùng biên kinh doanh. Cuộc cách mạng Nhung nổ ra mang theo biết bao nhiêu điều mới mẻ. Nhân cơ hội mở cửa những “chợ Việt nam” mọc lên như nấm sau mưa trên khắp các vùng miền. Khách quen của anh càng ngày càng nhiều lên và dãy xếp hàng trước bâu anh càng ngày càng dài ra. Anh mê đi với việc bán buôn ở vùng biên lúc nào cũng không biết nữa. Dẫu chẳng tài giỏi gì nhưng nhờ vốn liếng tiếng của mấy năm ăn học là một lợi thế rất lớn để phục vụ cho việc mưu sinh xứ người. Chắt chiu, tằn tiện theo tháng năm rồi cuộc sống của anh dần dần khấm khá lên, dần dần đón được vợ con sang. Bây giờ anh đã có nhà, cửa hàng đàng hoàng ở trung tâm thành phố và con cái cũng đã trưởng thành. Công to nhất với quê choa là anh đã kéo theo được chín anh em họ hàng thân thuộc sang đây lập nghiệp.
Quá nửa đời người phiêu bạt để đến bây giờ, khi cuộc sống đã ổn định sau biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc mưu sinh, đầu đã hai thứ tóc, mỗi khi con cháu tập trung đông đủ anh hay kể về tuổi thơ, về miền đất xứ Nghệ mà vẫn thấy trong lòng mình rưng rưng những nỗi niềm. Chẳng biết chúng nó có hiểu được cho không những nhọc nhằn của người dân quê choa, từ bao đời nay quay quắt trong chảo lửa, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nơi vùng đất khô cằn. Và chỉ mong con cháu nay được sống nơi Thiên đường của hành tinh xanh này mai sau vẫn nhớ về quê cha đất tổ như anh cu Nghệ.
Nguyễn Văn Sung gửi đăng