Góc nhìn

"Việt Nam quê hương ngạo nghễ"

Cập nhật lúc 31-10-2014 17:38:04 (GMT+1)

 

Tóm lược: Bài hát "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang viết vào năm 1966 là một bài hát kêu gọi người dân Việt Nam đứng lên chống lại kẻ thống trị bạo tàn để Việt Nam "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh."


Bài hát mô tả những nhọc nhằn, cực hình, đau thương mà dân Việt trải qua và ca ngợi tinh thần bất khuất, ý chí kiên trì, đoàn kết của dân Việt. Một cách kỳ bí, tuy bài hát được viết vào năm 1966, toàn thể nội dung nguyên văn bài hát áp dụng thích đáng cho Việt Nam trong giai đoạn hiện tại với phong trào dân chủ chống lại Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và chế độ độc tài. Như một lời tiên tri huyền bí, bài hát được viết như thể đặc biệt dành cho phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay tại Việt Nam.

*

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang viết bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" vào năm 1966 là bài hát kết trong một tuyển tập mười bản Trường ca với ý định viết về Việt Nam "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh" (Trần 2008). Bài hát đã trở thành một ca khúc oai hùng được hát trong suốt gần nửa thế kỷ trên khắp năm châu, và nhất là gần đây tại Việt Nam trong phong trào dân chủ và các cuộc biểu tình chống đối Tàu cộng. Bài hát được coi là một hùng ca, với nội dung thôi thúc người dân vùng lên đấu tranh chống lại đàn áp, thống trị, và xâm lăng. Đã có nhiều người viết về bài hát này. Đặc biệt, Trần Trung Đạo, viết một bài thật xuất sắc về ý nghĩa và ảnh hưởng của bài hát (Trần 2008). Trong bài này, tôi viết thêm vài ý kiến và phân tích để phụ thêm những gì đã viết.

Con người, cuộc đời, sự nghiệp, và tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã được viết đến rộng rãi (Xem, thí dụ như, DuCa 2003, Nhóm 2011, Wikipedia 2014). Sau đây là vắn tắt tiểu sử tác giả (Wikipedia 2014).

Nguyễn Đức Quang sinh năm 1944 ở Sơn Tây, Bắc Việt. Năm 1954 khi Việt Nam bị chia đôi thì ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư ở Đà Lạt. Ông nhập học và tốt nghiệp trường Đại học Đà Lạt phân khoa chính trị kinh doanh. Từ thập niên 1960, ông bắt đầu nổi tiếng qua nhiều nhạc phẩm với chủ đề thanh niên, tranh đấu, và cộng đồng. Sau đó ông cùng với ban Trầm Ca và một số huynh trưởng hoạt động thanh niên thành lập phong trào Du ca Việt Nam vào cuối năm 1966 tại miền Nam Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu của ông gồm có "Chiều qua Tuy hòa," "Việt Nam Quê hương ngạo nghễ," và "Xin chọn nơi này làm Quê Hương." Năm 1979 ông vượt biên sang Hoa Kỳ tỵ nạn và định cư ở Little Saigon, California. Ông hợp tác với các Nhật báo Người Việt, Viễn Đông rồi sau đó đứng ra lập tuần báo Chí Linh và Nguyệt san Phụ nữ Diễn đàn. Ông cũng đóng góp trên chương trình phát thanh và truyền hình. Hướng đạo Việt Nam đã tặng ông giải thưởng cao quý nhất: Bắc đẩu huân chương. Ông từ trần ngày 27 tháng 3 năm 2011 tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ca khúc "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" có thể được coi là một trong những bải hát hay nhất, hoặc là bài hát hay nhất, trong thể loại quê hương đất nước, cả về nhạc lẫn lời. Như trong những bài trước tôi viết về âm nhạc, tôi sẽ chỉ chú trọng về khía cạnh văn chương của lời bài hát.

Bài hát gồm có hai phiên khúc và điệp khúc và thưởng được trình bày là A1 B1 ĐK A2 B2 ĐK với A và B là hai phiên khúc và ĐK là điệp khúc. Nguyên văn lời bài hát như sau.

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài
Từng ngày qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ máu, ta cười dưới ánh mặt trời

Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên

A. Bài hát dùng câu chuyện dân Việt trải qua nhọc nhằn và đau thương để đề cao tinh thần bất khuất và lòng can đảm dân Việt:

Tuy Nguyễn Đức Quang cho biết ý định ông là viết cho Việt Nam "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," câu chuyện ông kể vẽ ra một hình ảnh có ý nghĩa tương tự nhưng dưới một khía cạnh khác. Rải rác trong các phiên khúc và điệp khúc, Nguyễn Đức Quang mô tả người dân Việt là những người chịu đựng cực hình, nhọc nhằn dưới sự đàn áp của kẻ thống trị và phải trải qua những đau thương nhưng lúc nào cũng giữ thái độ can đảm, ung dung, kiêu hùng. Tác giả dùng những hình ảnh cụ thể vật chất qua hành trình lâu dài trong lịch sử là ẩn dụ cho cuộc đấu tranh của dân Việt. Trong điệp khúc, tác giả liên kết sự tồn vong của đất nước với tinh thần kiêu hùng của người dân Việt. Cuối cùng, tác giả kêu gọi dân Việt giữ gìn khí tiết kiêu hùng và cùng đứng lên chống lại áp bức bạo tàn.

Tác giả dùng "ta" trong toàn thể bài hát cho "chúng ta" hoặc "người dân Việt." Cách dùng chữ này cho thấy lời bài hát có vẻ là lời kêu gọi chứ không phải là lời kể lể.

Bản chất kiêu hùng, nhân bản của dân Việt qua cực hình, khó nhọc:

Phiên khúc đầu tiên nói lên tinh thần và sức mạnh của dân Việt và những cực hình khó nhọc dân Việt đã trải qua trong lịch sử. Phiên khúc mở đầu với lời xác nhận bản chất kiêu hùng của dân Việt với chí khí chỉ có đi lên chứ không bao giờ đi xuống ("Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn"). Lời ví von dùng nước dâng gợi ra hình ảnh thủy triều lên. Với ai đã có dịp nhìn thủy triều lên, dù bằng tận mắt hoặc qua phim ảnh, đều hiểu sức mạnh của nó. Nước dâng lên, cho dù không có gió thổi mạnh và chỉ dâng lên chậm chạp, cũng cho thấy sức mạnh vĩ đại của thiên nhiên, không gì cản trở được. Ngoài cái sức mạnh lầm lì đó, cảnh tượng nước dâng lên còn gợi ra một hình ảnh mạnh mẽ hơn. Đó là hình ảnh của một cuộc nổi dậy. Tác giả dùng nước dâng lên là ẩn dụ cho cuộc nổi dậy của dân Việt chống lại thống trị bạo tàn, và cuộc nổi dậy đó sẽ tiến tới không bao giờ suy đồi. Chỉ với một câu mở đầu, tác giả vẽ ra hình ảnh câu chuyện của một dân tộc sẵn sàng nổi dậy với một cường độ không có gì ngăn cản được.

Ngay sau đó, tác giả chuyển sang một hình ảnh khác: Con đường đấu tranh cho tự do tuy dài dằng dặc nhưng người dân Việt không coi ra gì cả, và chỉ cười coi nhẹ cái nguy hiểm hoặc khó nhọc ("Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang"). Cách dùng chữ "trận cười" cho thấy sự coi thường đó có cái gì ngổ ngáo, nghịch ngợm, ngông cuồng, nhưng cũng có cái gì dũng cảm, quá tự tin đến độ coi thường mọi gian nan cực khổ, và coi mọi chuyện khó nhọc chỉ là trò đùa đáng cho trận cười ha hả.

Con đường dài ngút ngàn đó không phải là một chuyến đi chơi hay một cuộc hành trình vô ích. Nó là cuộc đi tiếp nối sau những chuỗi ngày tù túng từ thời xa xưa ("Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm.") Tác giả dùng gông xiềng là ẩn dụ cho "cái khốn khó, cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," hoặc sự xâm lăng của ngoại bang, sự lệ thuộc, tình trạng bị kẻ thống trị đàn áp. Và cứ mỗi lần người dân lê bước chân, tiếng xiềng xích lại kêu loàng xoàng, và mắ́t người dân lại sáng rực lên ("Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng"). Hình ảnh một đoàn người tù tội kéo lê xiềng xích gông cùm móc vào cổ chân là một hình ảnh bi thương. Gông xiềng phải nặng nề lắm mới khiến họ "kéo lê" như vậy. Mỗi bước chân đều đặn của họ khiến xiềng xích khua vào nhau kêu loàng xoàng từng nhịp. Và cứ mỗi lần nhịp xích kêu loàng xoàng là mắt họ rực sáng.

Tại sao mắt họ rực sáng? Cặp mắt rực sáng khi có gì có tác dụng mạnh trên đầu óc khiến trí tuệ hoặc ý chí hoặc thèm muốn được kích động. Cái rực sáng trong câu này không phải là cái rực sáng nhất thời, mà là cái rực sáng đều đặn theo nhịp điệu của bước chân tạo ra tiếng xích khua loàng xoàng, vì người tù được nhắc nhở cảnh tù túng của mình và nổi lên ý chí vượt thoát cái tù tội đó, gỡ bỏ gông cùm để có tự do. Lẽ dĩ nhiên tác giả không dùng xiềng xích với nghĩa đen, và không có ý định tả cảnh một người tù mắt rực sáng theo mỗi bước chân. Nhưng hình ảnh diễn tả quá tượng hình, quá bi đát, khiến cho khán giả quên đi, hoặc không cần biết đến cái ẩn dụ mà tác gỉả muốn gói ghém trong hình ảnh tù túng đó. Như sẽ trình bày sau, cách diễn tả này dùng kỹ thuật "thậm xưng" rất hiệu quả. Với cách dùng thậm xưng và ẩn dụ một cách tuyệt vời, tác giả cho thấy người dân Việt mỗi khi bị nhắc nhở đến cảnh khốn khó, nhược tiểu, nô lệ hoặc bị đàn áp là ý chí bừng sáng lên cho con đường tự do.

Trong phiên khúc kế tiếp, Nguyễn Đức Quang mô tả phong cách dân Việt đứng lên chống lại kẻ gây ra cái khốn khó, nhược tiểu, hoặc kẻ ngoại xâm, hoặc kẻ đang thống trị. Trước hết, dân Việt cho mọi người biết là họ ý thức được sự áp đảo bóc lột đó ("Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người.") "Mọi người" đây là tất cả mọi người, với hàm ý là kẻ đặt gông cùm lên người dân. Kẻ đó có thể cụ thể như kẻ ngoại xâm, kẻ đang thống trị, hoặc trừu tượng như sự dốt nát, đầu óc thiển cận. Hành động khua xích kêu vang là hành động bày tỏ sự bất mãn và chống đối. Những người bị bắt trong tù thường khua động bằng cách đập vào các song sắt nhà tù để phản đối những kẻ gác tù.

Sau khi bày tỏ niềm bất mãn và phản đối, một cách ngạc nhiên, người dân Việt nở nụ cười ("Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi/ Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi"). Nhóm chữ "nụ cười không tươi" và "nụ cười của lòng hờn sôi" có chút khác lạ, nhưng có tác dụng mạnh. Cho dù khán giả chưa hiểu rõ ý tác giả, cách diễn tả cũng tạo cho khán giả chút xúc động. Như sẽ trình bày sau, nhóm chữ "nụ cười của lòng hờn sôi" là cách dùng "nghịch lý" (paradox) một cách tinh tế. Dù sao chăng nữa, hai nụ cười này cho thấy tính chất nhân bản của dân Việt. Họ không phải chỉ "nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang" như Nguyễn Văn Vĩnh đã từng la mắng. Cái "nụ cười không tươi" đó có cái gì buồn bã, chua chát, cay đắng, thương hại, bất đắc dĩ, chẳng đặng đừng. Cái "nụ cười của lòng hờn sôi" có cái gì bực dọc, giận dữ, căm hờn. Và cái nụ cười đó sống mãi muôn đời cho dù có xa xôi bao năm tháng. Ta chưa hiểu tại sao người dân Việt có cái nụ cười như vậy cho tới khi ta đọc câu kế tiếp.

Ngay sau khi nở nụ cười buồn bã, chua chát, bất đắc dĩ và chất chứa căm hờn, người dân Việt phá bỏ gông cùm xiềng xích và ném xiềng xích trở lại lũ đàn áp ("Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian"). Hành động thật bất ngờ, mãnh liệt. Với "tràn tới," ta hiểu đó là đồng loạt, muôn người làm cùng lúc. "Tung xiềng vào mặt" là hành động chống trả đích đáng. Dân Việt không những chỉ chống trả lại kẻ đàn áp thống trị mà còn dạy chúng một bài học. Lịch sử Việt Nam đã cho thấy chuyện đó biết bao nhiêu lần. Ngô Quyền không những ngăn cản cuộc xâm lăng quân Nam Hán, mà còn tiêu diệt đoàn quân và chủ tướng trong trận Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo đánh đuổi giặc Mông cổ. Lê Lợi tống khứ giặc Minh về nước. Nguyễn Huệ quét sạch giặc Thanh ra khỏi bờ cõi.

Trong câu này, một lần nữa, Nguyễn Đức Quang dùng "nhân gian" để chỉ kẻ xâm lăng hoặc kẻ đàn áp, thống trị. Với lối dùng "mọi người," "nhân gian," ông không chỉ đích danh ai, mà gộp chung lại là những kẻ xâm lăng, hoặc kẻ đàn áp, thống trị. Như sẽ được trình bày sau, chính việc không kêu đích danh đối tượng bị chống đối khiến cho bài hát mất thời gian tính và do đó bài hát có thể được áp dụng trong bất cứ thời điểm nào.

Trở về với "nụ cười không tươi" và "nụ cười của lòng hờn sôi," sau khi người dân Việt đồng loạt "tung xiềng vào mặt" lũ thống trị áp bức, ta bây giờ hiểu được tại sao họ nở nụ cười đó trước khi làm chuyện tấn công mãnh liệt như vậy. Là dân tộc hiền hòa, người dân Việt không muốn dùng bạo lực chống lại kẻ thống trị đàn áp, nhưng vì sự áp bức quá tàn bạo làm sôi sục cơn giận dữ, họ đành phải ra tay, và họ ra tay một cách đích đáng. Nụ cười họ quả thật chấ̀t chứa tình thương hại, bất đắc dĩ, biểu lộ lòng nhân bản của dân Việt. Nhưng khi họ đã quyết định thì không còn gì cản trở họ được, và họ gỡ bỏ gông cùm xiềng xích một cách dễ dàng và ném lại vào mặt kẻ đã đặt gông cùm xiềng xích lên họ. Thái độ đó còn cho thấy phong cách ung dung tự toại, đầy tự tin của dân Việt khi đứng lên chống lại kẻ đàn áp.

Trong phần điệp khúc, NĐQ tinh thể hóa tinh thần bất khuất của dân tộc Việt qua biết bao nhiêu chứng tích lịch sử. Cha ông ta đã đổ máu bảo vệ non sông từ thời lập quốc ("Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại/ Xương da thịt này cha ông ta miệt mài"). Cái nhắc nhở về lịch sử đó cho thấy tinh thần bất khuấ̀t và ý chí kiêu hùng của dân Việt là bản chất dân Việt, có từ ngàn năm từ thời lập quốc. Đất nước đã trải qua bao cảnh dầu sôi lửa bỏng, chiến tranh điêu tàn, chịu đựng đô hộ Tàu ngàn năm, và thực dân Pháp tám mươi năm. Nhưng người dân Việt chỉ cười ngạo nghễ trong những cơn đau đớn đó ("Từng ngày qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi").

Tiếng cười ngạo nghễ đó có ý nghĩa gì?

Thái độ "ngạo nghễ" của dân Việt biểu hiện niềm kiêu hãnh trong tự trọng và coi thường nguy hiểm:

Thêm lần nữa, người Việt có một lối cười đặc biệt. Ban đầu là "cười vang vang" trước con đường khó nhọc trước mặt. Sau đó, khi sẵn sàng ra tay, người Việt nở "nụ cười không tươi" và "nụ cười của lòng hờn sôi." Rồi người Việt đánh trả kẻ thống trị xâm lược, dạy chúng một bài học đích đáng. Nhưng lịch sử cứ tiếp tục. Kẻ xâm lăng, thống trị vẫn chưa học được bài học, và cứ tiếp tục quấy nhiễu, tạo thêm đau thương cho người dân, và rồi dân Việt lại cứ vùng lên, đánh đuổi họ. Trong bao lần chống trả, người Việt "cười ngạo nghễ" trong nỗi thống hận không nguôi.

Ở đây, Nguyễn Đức Quang dùng chữ "ngạo nghễ" một cách tuyệt diệu. Ông hẳn là tâm đắc với chữ này, vì ông dùng nó trong nhan đề bản nhạc. Ta hãy tìm hiểu rõ cách dùng chữ này.

"Ngạo nghễ" là một tính từ độc đáo trong tiếng Việt vì nó có nhiều ý nghĩa tùy vào nội dung, bối cảnh của câu văn. Để diễn tả các ý nghĩa này, tiếng Anh không có một từ ngữ độc nhất tương đương với "ngạo nghễ" mà có nhiều từ ngữ. Do đó, khi dịch "ngạo nghễ" sang tiếng Anh, người dịch nên tùy vào trường hợp mà dùng từ ngữ thích hợp. Đại khái, khi dùng để tả hành động hoặc cách biểu lộ của một nhân vật, "ngạo nghễ" có ba ý nghĩa, tùy vào vị trí của nhân vật đó với người xung quanh, hoặc với tình huống đang đương đầu đối phó.

Trong ý nghĩa thứ nhất, nhân vật đó ở vị trí cao hơn người xung quanh qua tiền bạc, danh vọng, quyền lực, hoặc có lợi thế trong tình huống nào đó, "ngạo nghễ" hàm ý kiêu căng, phách lối, khinh miệt thiên hạ, và phản ảnh một tư cách xấu. Trong ý nghĩa này, vài thí dụ cho tiếng Anh tương đương gồm có haughty, arrogant, supercilious, disdainful.

Thí dụ: Với cục hột xoàn to tướng trên ngón tay lấp lánh dưới ánh đèn vũ trường, bước chân theo nhịp Rumba của nàng mất đi sự quyến rũ tình tứ, nhường lại cho vẻ ngạo nghễ kịch cỡm.

Trong ý nghĩa thứ nhì, nhân vật đó đối phó với một tình huống có vẻ khó khăn và không nhất thiết dính líu đến người khác, "ngạo nghễ" ngụ ý gan dạ, không sợ sệt, và bất chấp nguy hiểm. Cái gan dạ và bất chấp nguy hiểm đó có thể đúng và có thể sai, và "ngạo nghễ" có thể hàm ý một niềm tự tin thái quá hoặc một thái độ dại dột ngông cuồng, và không có ý tốt hay xấu tự nó, mà còn tùy vào các yếu tố khác. Trong ý nghĩa này, vài thí dụ cho tiếng Anh tương đương gồm có fearless, dauntless, bold, self-confident, intrepid.

Thí dụ: Đám thiếu niên bu quanh khán đài, hò hét cỗ vũ. Duy đứng thẳng dậy trên bục cao, hai tay nó đưa lên cao. Tiếng la hét nhỏ dần rồi im bặt. Mọi người nín thở, dán mắt vào Duy. Thằng bé đảo mắt nhìn quanh và nở một nụ cười ngạo nghễ.

Trong ý nghĩa thứ ba, nhân vật đó ở trong một tình huống bất lợi, thiệt thòi, và/ hoặc đương đầu với những kẻ đang ở vị trí thắng thế, "ngạo nghễ" hàm ý sự coi thường kẻ đang thắng thế đó, không phải vì kiêu ngạo, mà vì do cái nhận thức rõ là kẻ đang thắng thế đó không đáng là đối thủ của mình, hoặc cái tình huống nguy hiểm đó không đáng cho mình phải quan tâm. Nhân vật biểu lộ cái nhận thức đó, cố tình cho người khác biết, kèm theo với một sự thách thức. Do đó, "ngạo nghễ" có ý nghĩa tốt vì nó phản ảnh tư cách tự trọng, tự tin, và bất khuất của nhân vật. Trong ý nghĩa này, vài thí dụ cho tiếng Anh tương đương gồm có haughty, self-respecting, proud, challenging, defiant.

Thí dụ: Tiếng hát ngạo nghễ của bà Bùi Thị Minh Hằng trong phiên tòa xử bà về tội gây náo loạn công cộng tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt.

Trở về với bài hát, ý nghĩa nào Nguyễn Đức Quang muốn dùng cho câu "Từng ngày qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi"? Ta thấy ngay ông muốn dùng nghĩa thứ ba. Đúng vậy, người Việt cười ngạo nghễ trước nghịch cảnh và đau thương vì họ biết là họ sẽ thoát qua được nguy hiểm và cười với niềm tự tin và kiêu hãnh trong cơn đau đớn bất tận. Câu này không có hàm ý khinh miệt người nào, mà chỉ coi thường cơn đau đớn. Tiếng Anh thích hợp nhất có lẽ là "haughty" (hoặc "haughtily" khi dùng là trạng từ).

Tuy nhiên, dùng chữ "haughty" cho nhan đề thì có lẽ không thích hợp. Vì trong nhan đề "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ," chữ "ngạo nghễ" dùng là tính từ cho "quê hương." Tuy ta vẫn có thể nhân cách hóa "quê hương," nhưng cái được nhân cách hóa đó đại diện cho "quê hương" gồm có lãnh thổ, lịch sử, và toàn dân, do đó nên có chút nhẹ nhàng trong cách diễn tả. Vì vậy, chữ tiếng Anh thích hợp cho "ngạo nghễ" trong nhan đề nên là "proud" thay vì "haughty."

Nghịch lý cho thấy sự thật trong một tình huống có vẻ phi lý:

Với tiếng cười ngạo nghễ qua năm tháng, người Việt trở thành đoàn người hiên ngang ("Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang"). Tuy bị cực hình, khó nhọc, người dân vẫn vui vẻ, tiếp tục cuộc sống vô tư, cười đùa với nhau ("Trên bàn chông hát cười đùa vang vang"). Điều đó không có nghĩa là dân Việt vô tư đến độ không màng gì đến tổ quốc hoặc quên cả đau đớn. Không ai có thể quên đau đớn cười đùa vang vang khi ngồi trên bàn chông. Ở đây, Nguyễn Đức Quang dùng một kỹ thuật sắc bén để cho thấy vấn đề hoặc để nhấn mạnh, làm nổi bật ý tưởng. Đó là kỹ thuật dùng nghịch lý (paradox).

Nghịch lý là câu mới thoạt nghe có vẻ tự mâu thuẫn, nhưng có thể đúng. Thí dụ như trong truyện Animal Farm của George Orwell, có luật "Mọi thú vật đều bình đẳng, nhưng có vài con bình đẳng hơn các con khác." Đã bình đẳng rồi mà làm sao còn bình đẳng hơn? Nhưng Orwell muốn trình bày một sự thật về sự dối trá của chính quyền. Một thí dụ nữa là câu "Bạn có thể để dành tiền bằng cách tiêu xài nó." Làm sao mà dành dụm tiền khi ta tiêu xài nó? Nhưng ai sống trong tình trạng kinh tế lạm phát khủng khiếp đều thấm thía câu này. Trong bài hát, ta đã thấy Nguyễn Đức Quang dùng một dạng nhẹ của nghịch lý trước đây khi ông tả nụ cười những người tù túng là "nụ cười không tươi" và "nụ cười của lòng hờn sôi." Những câu hoặc nhóm chữ nghịch lý này có tác dụng mạnh hơn cách dùng "thuận lý" miễn là cái nghịch lý đó có sự giải thích thỏa đáng. Thí dụ những câu hoặc nhóm chữ nghịch lý khác là "tiếng hét yên tĩnh," "nước mắt khô queo," "cơn nóng buốt xương," v.v.

Trở về với câu "Trên bàn chông hát cười đùa vang vang," Nguyễn Đức Quang vẽ ra một nghịch lý. Làm sao ta có thể cười đùa vang vang khi ngồi trên bàn chông? Làm sao ta có thể thích thú khi đang chịu cảnh đau đớn? Tuy nhiên, sẽ có người nhận ra được cái "chân lý" đó. Cái chân lý đó cũng gần giống như là cảnh tiếng hát trong phiên tòa của Bùi Thị Minh Hằng hoặc giọng ca trong tù ngục của Đỗ Thị Minh Hạnh. Tôi sẽ không viết nhiều thêm về vấn đề này, nhưng độc giả nào đã từng trải qua kinh nghiệm "trong cái đau có cái sướng" hiểu ngay được. Một cách vắn tắt, họ cười đùa vang vang vì họ coi nhẹ sự khốn khổ, cảnh đọa đầy, đánh đập hay tù tội, và họ biết trước sau gì họ cũng sẽ thắng. Cái hy sinh của họ quá nhỏ nhoi so với cái mục tiêu lớn lao của họ trong cuộc chiến chống lại kẻ xâm lăng hay đám thống trị. Đối với họ, sự tồn vong của đất nước Việt Nam to tát hơn rất nhiều sự tồn vong của chính họ.

Với cái nghịch lý đó, tác giả kết thúc điệp khúc với câu tuyên bố về sự tồn vong của đất nước Việt Nam.

Sự tồn vong của Việt Nam và ý chí kiêu hùng của dân Việt có mối liên hệ "nếu và chỉ nếu":

Sự tồn vong của đất nước Việt Nam có liên hệ trực tiếp với ý chí kiêu hùng của dân Việt. ("Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng"). Câu "Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng" thực ra không đơn giản như mới thoạt nghe. Trong câu này, Nguyễn Đức Quang phải đối phó với một vấn đề toán học hoặc luận lý hơi phức tạp, nhưng vì khuôn khổ hạn hẹp của một bài hát, ông phải diễn tả một cách giới hạn.

Vấn đề toán học đó là gì? Câu trên có hai vế: "còn Việt Nam" và "triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng." Hai vế này được kết hợp với nhau qua mối liên hệ "giả thiết/ thuyết" (premise) (hay tiền đề) và "kết luận" (conclusion) trong dạng "nếu A thì B" (A → B). Sự liên hệ giữa hai vế này tùy thuộc vào vế nào là giả thiết và vế nào là kết luận. Có hai trường hợp.

Trong trường hợp thứ nhất, A (giả thiết) = "Việt Nam còn," và B (kết luận) = "triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng." Câu A → B được diễn giải là: "Nếu Việt Nam còn, thì cả triệu dân Việt Nam vẫn còn là triệu khối kiêu hùng." Nên ghi chú rằng điều đó không có nghĩa là nếu đất nước Việt Nam không còn, thì triệu dân Việt sẽ không còn triệu khối kiêu hùng. Đó là vì từ "nếu A thì B" ta không thể đưa đến "nếu không A thì không B," nhưng ta có thể đưa đến "nếu triệu con tim này không còn là triệu khối kiêu hùng, thì đất nước Việt Nam sẽ không còn" vì từ "nếu A thì B", ta đưa đến "nếu không B thì không A" (contraposition).

Trong trường hợp thứ nhì, A (giả thiết) = "Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng," và B (kết luận) = "Việt Nam còn." Câu A → B được diễn giải là: "Nếu triệu con tim này còn là triệu khối kiêu hùng thì Việt Nam còn." Lần nữa, điều đó không có nghĩa là nếu triệu con tim này không còn là triệu khối kiêu hùng, thì đất nước Việt Nam sẽ không còn, nhưng ta có thể đưa đến "nếu đất nước Việt Nam không còn, thì triệu dân Việt sẽ không còn triệu khối kiêu hùng."

Câu "Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng" mới thoạt nghe thì có vẻ như có lối diễn giải thứ nhất vì thứ tự của " còn Việt Nam" và "triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng." Tuy nhiên, thứ tự của hai vế trong một câu không nói lên cái liên hệ của hai vế vì sự liên hệ của hai vế tùy vào vị trí của chữ "nếu." Ta thấy ngay câu trên có hai nghĩa khác nhau tùy theo vị trí của chữ "nếu" như sau:

(Nếu) còn Việt Nam, (thì) triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng: trường hợp thứ nhất.

Còn Việt Nam (nếu) triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng: trường hợp thứ nhì.

Nguyễn Đức Quang muốn dùng cách diễn giải nào? Vì sự giới hạn của lời trong bài hát, ông không thể diễn giải một cách minh bạch, nhưng qua toàn thể bài hát, ta hiểu là ông muốn cả hai diễn giải. Ông bỏ chữ "nếu" và đặt hai vế song song, ngụ ý rằng hai vế đó có liên hệ hỗ tương nhau, và đưa đến cả hai diễn giải cùng lúc. Bằng cớ cho chuyện này là toàn thể bài mô tả ý chí kiêu hùng của dân Việt và cho thấy lời kêu gọi dân Việt đứng lên và cùng tranh đấu cho lý tưởng chung để bảo tồn đất nước.

Nói tóm lại, bất kể vế nào là giả thiết hay kết luận, Nguyễn Đức Quang muốn có cả hai: Nếu A thì B và Nếu B thì A. Ký hiệu luận lý cho câu này là: A ↔ B. Trong toán học, ta gọi đó là "điều kiện ắt có và đủ" hoặc "nếu và chỉ nếu."

Câu mà tác giả muốn nói là "Việt Nam còn, nếu và chỉ nếu triệu con tim này còn là triệu khối kiêu hùng." Điều đó dẫn đến bốn câu sau:

1. Nếu Việt Nam còn, thì triệu dân Việt Nam vẫn còn là triệu khối kiêu hùng.

2. Nếu triệu dân Việt Nam vẫn còn là triệu khối kiêu hùng, thì Việt Nam còn.

3. Nếu triệu dân Việt Nam không còn là triệu khối kiêu hùng, thì Việt Nam không còn.

4. Nếu Việt Nam không còn, thì triệu dân Việt Nam không còn là triệu khối kiêu hùng.

Nghĩa là trong hiện tại, sự tồn vong của đất nước Việt Nam và ý chí kiêu hùng của toàn dân Việt Nam liên hệ với nhau một cách độc nhất. Trong lịch sử, Việt Nam mất, nhưng ta lấy lại được. Nhưng bây giờ chuyện đó không còn đúng nữa. Nếu Việt Nam mất, là ta mất vĩnh viễn, vì dân Việt không còn ý chí kiêu hùng nữa.

Lời tuyên bố của Nguyễn Đức Quang về sự tồn vong của đất nước là một tối hậu thư cho dân Việt. Như sẽ được trình bày sau, cái tối hậu thư này thật là có ý nghĩa trong giai đoạn đấu tranh hiện tại.

Cuộc hành trình gian khổ nhưng dân Việt vẫn vui sống trong tinh thần đoàn kết thương yêu:

Trong phiên khúc kế tiếp, Nguyễn Đức Quang nhắc lại cuộc hành trình của dân Việt. Người dân lúc nào cũng trải qua những cảnh dầu sôi lửa bỏng hoặc chịu những cực hình đày đọa, cảnh đau khổ lầm than ("Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng"). "Lò lửa hồng" tượng trưng cho sự nhọc nhằn hoặc những cực hình mà dân Việt phải chịu đựng. Cách dùng chữ "giống dân" hơi đặc biệt và ngụ ý dân Việt thuộc loại dân mà cùng chịu cực hình như nhau ("đi tràn") trên con đường đấu tranh.

Tuy gặp khó khăn hoặc chịu cực hình, người dân vẫn lạnh lùng chịu đựng mà chỉ cùng đoàn kết nhìn về cùng một mục đích chung ("Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm"). Nhóm chữ "mặt lạnh như đồng" hơi khác lạ, nhưng rất hữu hiệu vì nó tượng hình và cho thấy thái độ lạnh lùng cứng rắn. Nhóm chữ "cùng nhìn về một xa xăm" cho thấy tinh thần đoàn kết của dân Việt cùng theo đuổi một mục tiêu trong cuộc đấu tranh. Mục tiêu đó tuy xa xăm nhưng vẫn có thể đạt được với ý chí kiên quyết và tinh thần phấn đấu mạnh mẽ.

Cuộc hành trình rất là gian khổ và người dân phải cực nhọc đi, mồ hôi nhễ nhại trên những cánh tay gân guốc dưới ánh mặt trời ("Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi"). Câu này vẽ ra hình ảnh cực nhọc về vật chất, nhưng có ngụ ý cả vật chất lẫn tinh thần, vì tác giả dùng những hình ảnh cụ thể vật chất là ẩn dụ cho những sự trừu tượng tinh thần. Trong cuộc đấu tranh, kẻ thống trị ra tay đàn áp đánh đập, gây cảnh máu đổ thịt rơi. Dù vậy, người dân Việt vẫn ôm vết thương rỉ máu và tươi cười ("Ôm vết thương rỉ máu, ta cười dưới ánh mặt trời"). Hẳn nhiên, cuộc hành trình là nghĩa đen, và nghĩa bóng là trải qua bao năm tháng, đất nước và dân Việt chịu biết bao nhiêu thống hận đau thương, chiến tranh tang tóc, biết bao nhiêu người ngã gục, nhưng dân Việt vẫn sống còn và cùng vui sống trong tinh thần đoàn kết thương yêu.

Dân Việt hãy lo cho thế hệ mai sau chọn tinh thần kiêu hùng của dân Việt:

Trong phiên khúc chót, Nguyễn Đức Quang gửi lời nhắn nhủ cho toàn dân Việt. Người dân nên biết lo cho thế hệ mai sau, thế hệ tương lai sẽ đem lại vinh quang cho tổ quốc để tiếp nối ước vọng tiền nhân. Lời nhắn nhủ ông thật là đơn giản, nhưng thật mạnh mẽ. Con cháu sau này nếu muốn tiếp tục làm con người thì phải làm người huy hoàng, chứ đừng có làm người hèn hạ vô đạo đức ("Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người/ Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam").

Nhưng thế nào là "huy hoàng"?

Một cách bất ngờ, và là đỉnh cao nhất của bài hát, Nguyễn Đức Quang khuyên để làm người "huy hoàng," con cháu ta phải "chọn làm người dân Nam." Có hai điểm trong câu "chọn làm người dân Nam."

Thứ nhất là "dân Nam." "Nam" đây chỉ gì? có phải là miền Nam của nước Việt Nam? Hẳn nhiên là không. Nguyễn Đức Quang không bao giờ tỏ ý phân chia Nam Bắc. Cả toàn bài hàm ý chống lại giặc ngoại xâm, rõ ràng là giặc Tàu, ở phía Bắc nước Việt Nam. Do đó, "Nam" trong "dân Nam" là người Việt Nam ở phía Nam của Tàu. Cách dùng Nam để chỉ toàn nước Việt Nam rất là thông thường. Thí dụ như trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết "Phong tục Bắc Nam cũng khác" cho thấy phong tục Tàu và Đại Việt (tức Việt Nam sau này) là khác nhau, xác nhận Nam là chỉ Việt Nam, và Bắc là chỉ Tàu.

Thứ nhì là cách dùng chữ "chọn." Nguyễn Đức Quang quả thật táo bạo khi dùng chữ "chọn" như thể ai cũng có thể chọn là người của một xứ. Quan trọng nhất, nếu bạn sinh trưởng ở Việt Nam thì bạn có cần phải "chọn" là người Việt Nam hay không? Theo luật quốc tịch của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nếu ai sinh trưởng ở xứ nào thì đương nhiên là công dân của xứ đó, không cần phải có sự lựa chọn gì hết. Tuy nhiên, với cách dùng chữ "chọn," Nguyễn Đức Quang rõ ràng là không có ý nói về khía cạnh quốc tịch. Ông không có ý nói là "chọn" sinh trưởng ở Việt Nam (vì họ đã sinh trưởng ở Việt Nam rồi), mà "chọn" có tinh thần và ý chí của người dân Việt Nam. Cái tinh thần đó, như được nhắc nhở nhiều lần trong các phiên khúc trước và điệp khúc, là tinh thần bất khuất, ý chí kiên trì, kiêu hùng, nhẫn nại, đoàn kết. Cái tinh thần "ngạo nghễ" cho dù bị thất thế sa cơ, bị đàn áp thống trị, vẫn giữ vững niềm tin, lòng tự trọng, và can đảm. Chính cái tinh thần "ngạo nghễ" đó, là tinh thần của dân Nam. Bạn có thể là người Việt Nam, vì sinh trưởng tại Việt Nam, nhưng chưa chắc bạn có tinh thần người Việt Nam. Để làm con người huy hoàng, bạn không thể chỉ vỗ ngực xưng là người Việt Nam, mà bạn phải "chọn" có tinh thần và ý chí của người Việt Nam.

Nguyễn Đức Quang gói ghém ước nguyện ông trong câu "Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam." Câu đó, theo tôi nghĩ, là câu hay nhất trong cả bài hát. Câu đó có ý nghĩa thật sâu sắc và súc tích. Như sẽ được trình bày sau, câu đó lại còn có ý nghĩa hơn hết thảy trong giai đoạn hiện tại của nước Việt Nam.

Ngoài chuyện làm người huy hoàng, con cháu ta còn phải làm người ngang tàng không biết sợ hãi bất cứ ai, và sẵn sàng vạch mặt chỉ tên những kẻ bất lương phản trắc ("Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian"). Một lần nữa, Nguyễn Đức Quang dùng "trần gian" để chỉ mọi người, bất kể là ai, kẻ quyền thế, thống trị, ngoại xâm, hoặc tay sai giặc.

Để kết luận, Nguyễn Đức Quang kêu gọi những người ngã gục cố đứng dậy và mạnh mẽ cùng dấn thân với toàn dân Việt trong tinh thần "ngạo nghễ" trong cuộc đấu tranh bảo vệ sinh tồn của tổ Quốc ("Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên"). Những người ngã gục này có thể là những người bỏ cuộc dọc đường vì thiếu ý chí hoặc bị thương về vật chất hoặc tinh thần. Họ cũng có thể là những người lầm đường lạc lối hoặc làm những chuyện sai lầm trong quá khứ.

Nội dung của bài hát nói lên tinh thần bất khuất, sức chịu đựng, và thái độ kiêu hùng tự tin của dân Việt qua những đau thương cực khổ tạo ra bởi kẻ thống trị bạo tàn. Bài hát còn nhắc nhở dân Việt, nhất là các thế hệ mai sau, phải ráng giữ gìn tinh thần bất khuất đó để làm người huy hoàng.

Nội dung đó được diễn tả một cách tuyệt vời qua cách dùng những kỹ thuật tinh vi trong lối viết.

B. Cách diễn tả thật độc đáo qua cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và kỹ thuật viết điêu luyện:

Có hai điểm nổi bật trong cách diễn tả ý tưởng trong bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ."

Điểm thứ nhất là điệp ngữ. Nguyễn Đức Quang cố tình lập đi lập lại những từ ngữ đánh mạnh vào óc khán giả. Các điệp ngữ này gồm có từ ngữ về cực hình, nỗi nhọc nhằn đau thương, và thái độ ung dung, vui tươi. Ta nhận ra ngay cái tương phản của hai khái niệm này. Cực hình và nỗi nhọc nhằn đau thương gồm có xiềng xích, gông cùm, bàn chông, lò lửa hồng, vết thương rỉ máu. Vui tươi gồm có cười vang vang, cười ngạo nghễ, cười đùa vang vang, cười dưới ánh mặt trời. Bằng cách dùng những hình ảnh cụ thể mô tả hai ý tưởng tương phản và lập đi lập lại nhiều lần, Nguyễn Đức Quang tạo ấn tượng mạnh trên khán giả mà không gây ra nhàm chán. Như một họa sĩ vẽ một bức tranh, ông dùng các màu tương phản, nhưng xếp đặt xen kẽ nhau, tạo ra nét sống động và giúp duy trì hình ảnh trong óc khán giả lâu dài.

Điểm thứ hai là cách dùng các mỹ từ (figure of speech) như ẩn dụ (metaphor), hoán dụ (metonymy), so sánh (simile), và thậm xưng (exaggeration). Nguyễn Đức Quang không dùng các mỹ từ một cách máy móc hoặc sáo rỗng. Ngược lại, ông áp dụng các thể loại này một cách cụ thể và có tác dụng mạnh. Ta thấy hoán dụ ("ta" cho "ý chí ta"), so sánh ("như nước dâng," "mặt lạnh như đồng"). Ẩn dụ xuất hiện khắp nơi, từ ý tưởng tới hình ảnh. Thí dụ: "đường dài ngút ngàn" ngụ ý cuộc đấu tranh; "gông xiềng" cho bị đàn áp, đô hộ; "bàn chông," "lò lửa hồng" cho cực khổ, đày đọa; "vết thương rỉ máu" cho nỗi đau đớn; "người dân Nam" cho chí khí kiêu hùng.

Nguyễn Đức Quang còn dùng một kỹ thuật tinh vi trong cách diễn tả. Đó là cách dùng "thậm xưng," một kỹ thuật phóng đại để làm nổi bật ý tưởng. Dùng gông xiềng là ẩn dụ cho "cái khốn khó, cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu" là một sự phóng đại, tuy cái phóng đại đó không xa thực tế cho lắm. Dùng mắt "rực sáng" mỗi khi "xích kêu loàng xoàng" là ẩn dụ cho niềm phấn khích muốn thoát khỏi cái tù túng của khốn khó, nhược tiểu cũng là một sự phóng đại. Nhưng cái phóng đại đó thật là hiệu quả vì cái ẩn dụ vẽ ra một hình ảnh gây xúc động mạnh. Hình ảnh tù tội là một hình ảnh bi đát và dễ tạo cảm xúc. Ta thấy những hình ảnh thậm xưng đầy rẫy trong bài hát: "đau nhức không nguôi," "đi tràn trên lò lửa hồng," "rỉ máu." Không phải ẩn dụ phóng đại nào cũng hay, và kỹ thuật thậm xưng phải được dùng một cách tinh tế và sâu sắc. Lấy một thí dụ, dùng cơn đói là ẩn dụ cho sự thèm muốn trau dồi kiến thức là một sự phóng đại có hiệu quả vì rất có nhiều người ví kiến thức như món ăn. Do đó, mô tả cảnh rỏ nước dãi là ẩn dụ cho ý muốn học hỏi là sự phóng đại có hiệu quả, vì ai cũng biết cái bi đát của cơn đói. Tuy nhiên, dùng cơn đói là ẩn dụ cho sự thèm muốn tình dục là một sự phóng đại thiếu hiệu quả, một phần vì tính chất vô đạo đức và một phần vì sự khập khiễng của cái ẩn dụ đó. Bạn không thể bịa ra một ý tưởng kỳ quặc nào đó rồi xưng nó là ẩn dụ.

Nguyễn Đức Quang cũng dùng những kỹ thuật viết một cách tinh tế điêu luyện. Ông tả cảnh bằng cách triệt để dùng "cho thấy, không kể" nỗi nhọc nhằn qua các mô tả cụ thể tượng hình, tượng thanh: trận cười vang vang, mắt ta rực sáng, xích kêu loàng xoàng, khua xích kêu vang, tung xiềng vào mặt, máu... dồn lại, xương da thịt, trên bàn chông, cười đùa vang vang, mặt lạnh như đồng, mồ hôi nhễ nhại, cuộn vòng gân tươi, rỉ máu, điểm mặt mày, ngoi dậy. Với lối mô tả dùng chi tiết rõ rệt, ông tạo ra một khúc phim hoạt cảnh với các nhân vật sống động.

Tác giả dùng các động từ mạnh mẽ rất có hiệu quả: nước dâng, lê, rực sáng, khua, tung, dồn, đi tràn, cuộn vòng, chọn, điểm, gục, ngoi dậy. Một điểm đặc biệt nữa là ông dùng từ ngữ mới lạ, mới thoạt nghe tưởng như khập khiễng hoặc không thích hợp, nhưng những từ ngữ này cần có sự suy nghĩ sâu xa mới nhận ra tác dụng của chúng. Thí dụ như "ngạo nghễ," "nụ cười không tươi," "lòng hờn sôi," "miệt mài," "đau nhức không nguôi," "giống dân," "mặt lạnh như đồng."

Ngoài ra, như trình bày ở trên, tác giả áp dụng kỹ thuật độc đáo của nghịch lý ("Trên bàn chông hát cười đùa vang vang") và tương phản để nhấn mạnh ý tưởng.

Nói tóm lại, bằng cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và các kỹ thuật viết tuyệt diệu, Nguyễn Đức Quang vẽ ra một cuộc đấu tranh chống lại thống trị bạo tàn với nét sống động, lôi cuốn, vả hiệu quả.

C. Bản dịch tiếng Anh bài hát "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ":

Trong truyện ngắn "Những chiến sĩ cho tự do" (The Freedom Fighters) trong tuyển tập "Lửa Cháy Trong Mưa" (Fire In The Rain) (Cao-Đắc 2014a; Cao-Đắc 2014b), có cảnh chiếc thuyền nhỏ với những thuyền nhân lênh đênh trên biển cả mênh mông. Các người trên thuyền cùng nhau hát bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" trong một sinh hoạt cho qua ngày. Trong nguyên tác tiếng Anh, tôi dịch bài hát sang tiếng Anh (Cao-Đắc 2014b, 266-267). Như trình bày ở trên, bài hát tiếng Việt có lối dùng chữ tinh tế và hơi phức tạp. Do đó, chuyện dịch sang tiếng Anh để giữ được ý tưởng và phản ảnh ý nghĩa của bài hát rất là khó khăn. Chuyện còn khó hơn nữa khi tôi muốn giữ cùng số âm tiết (syllables) trong mỗi câu để bài dịch tiếng Anh có thể hát được với cùng nhạc điệu. Ngoài ra, tôi cũng cố tạo ra vần điệu để bài hát có âm điệu dễ hát và có thể được đọc như một bài thơ. Mục đích chính của tôi là giới thiệu bài hát cho những người nói tiếng Anh, kể cả các thế hệ trẻ gốc Việt không biết tiếng Việt rành rẽ. Hẳn nhiên là bản dịch có thiếu sót hoặc sai lầm và có thể không lột trần được mọi ý nghĩa tinh tế của bài hát. Nhưng tôi hy vọng là bản dịch biểu hiện chính xác ý tưởng chính của bài hát.

VIETNAM, OUR PROUD FATHERLAND

We rise up like high tides that won’t retreat 
The long road, merely a laughable feat 
We drag our feet shackled by distant pains 
Our eyes glitter with the sounds of clanking chains

We stir up chains right before every eye 
The lasting smile is one of a sad cry
The distant smile is one of boiling rage 
We step forward, tossing chains at their faces

Blood from Văn Lang pours together 
Bones and flesh from our forefathers 
Everyday, we laugh haughtily in our endless anguish 
We are a crowd of proud people 
On sharp nails, we sing, laugh out loud 
Vietnam lives, so do millions of our proud hearts

We are people walking on glowing coals 
With cold faces, we look to the same goals 
Our pulsing veins roll under sweaty skin 
With blood-dripping wounds, under sunlight we grin

Tell our children to be the righteous
Choose to be the South, to be the glorious 
Our bold fingers point at them without fear
Rise up and walk tall, those who collapse, our dear!

D. "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" là lời tiên tri kỳ bí cho phong trào dân chủ tại Việt Nam hiện nay:

Một cách kỳ lạ, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ," lại rất có ý nghĩa vào năm 2014 tại Việt Nam hơn là trong giai đoạn bài ra đời năm 1966 tại Sài gòn. Năm 1966 chứng kiến mức leo thang của chiến tranh Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc chiến, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" không có nội dung của một bài hùng ca truyền thống thúc dục quân dân miền Nam tích cực tham gia chống lại quân Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng. Tuy Nguyễn Đức Quang muốn viết cho Việt Nam "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," cái khốn khó, nhược tiểu này nên được biểu hiện, không ít thì nhiều, qua cảnh chiến tranh Nam Bắc và cảnh đất nước chia đôi. Nhưng, một cách kỳ lạ, ông không đả động một chút gì về những chuyện đó, như thể là ông muốn trốn tránh những đề tài đó. Hoặc, như thể ông dành bài hát của ông cho thế hệ sau một cách không cố tình.

Một cách thần bí, trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" có gíá trị là một bài hùng ca cho phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ hơn bao giờ hết. Viết cách đây gần nửa thế kỷ, bài hát là lời tiên tri cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ nguyên văn mà không cần phải sửa đổi một chút xíu nào. Sau đây là những nhận xét chứng minh cho chuyện đó.

Thứ nhất, Nguyễn Đức Quang không hề xác nhận rõ ràng đối tượng cho cuộc nổi dậy của dân Việt là ai. Ông dùng từ ngữ mơ hồ như "mọi người," "nhân gian," và "trần gian." Trong phần phân tích trên, tôi diễn giải các từ ngữ đó là ám chỉ kẻ xâm lăng hoặc kẻ thống trị, đàn áp. Dưới nội dung lịch sử Việt Nam, hầu như tất cả mọi chiến tranh chống ngoại xâm là chống giặc phương Bắc (Hán, Mông cổ, Thanh), với giai đoạn ngắn chống thực dân Pháp. Nhưng nếu ta nghe hoặc đọc kỹ lại lời trong bài ca, đối tượng cho cuộc nổi dậy của dân Việt là kẻ đang thống trị hơn là kẻ ngoại xâm. Thực ra, từ ngữ "mọi người," "nhân gian," và "trần gian" áp dụng thích đáng cho ĐCSVN và chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) và những kẻ thừa hành nhiệm vụ (tòa án, công an, cảnh sát, cán bộ, viên chức) hơn là cho kẻ ngoại xâm, vì những từ ngữ này hàm ý chỉ những người cùng sống chung trong nước. Trong giai đoạn hiện tại, đó là phe thiểu số đang nắm quyền.

Thứ nhì, Nguyễn Đức Quang mô tả các cực hình dân Việt trải qua bằng các ẩn dụ như gông cùm, xiềng xích, bàn chông, lò lửa hồng. Các ẩn dụ này áp dụng cho cực hình dân Việt chịu đựng dưới ách đô hộ Tàu hoặc Pháp, nhưng cũng áp dụng một cách còn chính xác hơn cho các cực hình mà dân Việt đang chịu đựng dước chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam. Ta không khỏi hoảng kinh khi chợt nhận ra rằng ĐCSVN đã đặt gông cùm, xiềng xích, bàn chông, và lò lửa hồng lên dân Việt trong suốt 70 năm ở miền Bắc và 40 năm ở miền Nam. Còn gì chính xác hơn là những gông cùm, xiểng xích của lừa đảo, tàn bạo, mị dân mà ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN đã đặt lên dân Việt trong suốt bao nhiêu năm qua? Cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, biết bao nhiêu lừa đảo lịch sử biến những thanh thiếu niên nam nữ thông minh tài giỏi thành những kẻ u mê, sự đày đọa dân miền Nam và những quân dân cán chính của chính thể VNCH, các luật lệ rừng rú, sự cưỡng bức đất đai của dân oan, sự bắt bớ giam cầm những người bất đồng chính kiến, dùng các tù nhân lương tâm là con tin trao đổi cho những lợi lộc cho đảng, những tệ trạng tham nhũng, bóc lột dân, khánh kiệt tài nguyên quốc gia, tinh thần khiếp nhược Tàu cộng, những hành vi bán nước công khai và bí mật, dùng bạo lực công an cảnh sát để khống chế đàn áp dân, và muôn ngàn các hành động đốn mạt khác. Nếu những cái đó không phải là gông cùm, xiềng xích, bàn chông, lò lửa hồng thì còn gì chính xác hơn?

Thứ ba, Nguyễn Đức Quang mô tả tinh thần bất khuất, kiêu hùng, ý chí mạnh mẽ, sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai của dân Việt. Những mô tả này thực ra còn chính xác và cụ thể hơn cho những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ. Những lời lẽ oai phong của Nguyễn Phương Uyên trong phiên tòa quả y như là "tung xiềng vào mặt" lũ quan tòa xử án. Tiếng hát thanh thản của Bùi Thị Minh Hằng trong phiên tòa và lời ca của Đỗ Thị Minh Hạnh trong ngục tù đúng là tiếng "cười ngạo nghễ" trong "đau nhức không nguôi." Vẻ mặt khắc khổ của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bình tĩnh trong ngày xử cho thấy "mặt lạnh như đồng" với tia "nhìn về một xa xăm." Đôi dép tổ ong của Điếu Cày là biểu hiện cho "da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi." Và biết bao nhiêu người đã gục ngã vì bị hành hạ, đánh đập, thiếu thuốc men, trong và ngoài ngục tù là những người "ôm vết thương rỉ máu" nhưng, với những người còn sống, họ vẫn "cười dưới ánh mặt trời."

Thứ tư, Nguyễn Đức Quang tuyên bố một câu về sự tồn vong của đất nước Việt Nam là "Việt Nam còn nếu và chỉ nếu triệu con tim này còn là triệu khối kiêu hùng." Câu tuyên bố đó thực ra cũng không có gì là lạ trong một bối cảnh bình thường. Tuy nhiên, điểm lạ là lời tuyên bố có vẻ như trên trời rớt xuống trong một bài hát thúc đẩy người dân thoát khỏi cảnh khốn khó, nhược tiểu. Vì câu đó là câu chót trong điệp khúc, ta phải hiểu đó là câu quan trọng nhất. Nhưng câu quan trọng nhất đó lại có vẻ không ăn nhằm gì tới những dàn dựng của tác giả về gông cùm, xiềng xích, về tung xiềng vào mặt nhân gian, cười ngạo nghễ trong đau nhức không nguôi, trên bàn chông hát cười đùa vang vang, đi tràn trên lò lửa hồng, cùng nhìn về một xa xăm, v.v. nếu được nhìn dưới bối cảnh lịch sử dân Việt chống ngoại xâm. Cái kết nối của những dàn dựng đó với chuyện tồn vong của đất nước rất là lỏng lẻo vì tác giả đang diễn tả sự kiêu hùng của dân tộc và chống lại ngoại xâm hoặc thống trị bạo tàn. Chuyện mất nước có vẻ đột ngột. Tại sao chuyện thoát khỏi cảnh khốn khó, nhược tiểu lại dính líu hệ trọng đến sự sống còn của nước Việt Nam? Khi bài hát ra đời, câu đó không khiến cho ai suy nghĩ gì thêm, và ai cũng cho rằng đó là câu nói tự nhiên về lịch sử đất nước.

Tuy nhiên, khi ta nghe hoặc đọc câu đó trong lúc này, ta không khỏi rùng mình kinh ngạc. Hiện nay, không có gì đáng sợ hơn cho dân Việt là nỗi sợ mất nước vào tay Tàu cộng. Bí mật của hội nghị Thành Đô vẫn chưa được đem ra ánh sáng. Thái độ của giới lãnh đạo ĐCSVN rất là khả nghi và những hành động gần đây của họ và Tàu cộng cho thấy cái hiểm họa mất nước là sự thật. Khi bài hát được nghe hoặc đọc lúc này, ta thấy cái móc nối giữa sự tồn vong đất nước và dàn dựng về gông cùm xiềng xích, cười ngạo nghễ, hát cười đùa, v.v. quả thật là chặt chẽ. Đúng vậy, nếu triệu người dân Việt không còn là triệu khối kiêu hùng ngạo nghễ thì Việt Nam sẽ không còn.

Thứ năm, Nguyễn Đức Quang kể câu chuyện đất nước Việt Nam là cuộc hành trình dài ngút ngàn của đấu tranh cho tự do, thoát bỏ gông cùm xiềng xích, và tinh thần kiêu hùng, thái độ ngạo nghễ của dân Việt. Tuy Nguyễn Đức Quang dùng những hình ảnh này là ẩn dụ cho "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," câu chuyện gầy dựng nhắc nhở đến lịch sử. Câu chuyện đó phù hợp với lịch sử Việt Nam một cách tổng quát, nhưng nó không phù hợp với những giai đoạn lịch sử tổ quốc từ thời máu từ thành Văn Lang dồn lại và cha ông miệt mài bỏ thịt xương bảo vệ đất nước.

Quan trọng nhất, có thật là Nguyễn Đức Quang đang kể chuyện lịch sử Việt Nam hay không? Câu chót của bài hát cho ta câu trả lời: "Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên." Đó là một lời kêu gọi. Lời kêu gọi cho một phong trào hiện tại, không phải là câu chuyện quá khứ. Tác giả kêu gọi gì trong năm 1966 khi cuộc chiến hai miền đang xảy ra tàn khốc? Cả toàn bài không hề nhắc đến cuộc chiến hai miền, hoặc sự khác biệt ý thức hệ. Do đó lời kêu gọi của tác giả, tuy có thể chấp nhận là lời kêu gọi "vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu," vào năm 1966, lại là lời kêu gọi thích đáng nhất trong năm 2014. Đúng vậy, chỉ có trong giai đoạn này, lời kêu gọi cho một cuộc nổi dậy đứng lên chống lại kẻ đang thống trị đấ̀t nước vì sự tồn vong đất nước mới là thích đáng.

Thứ sáu, Nguyễn Đức Quang cho một lời khuyên gần cuối bài: "Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam." Như đã phân tích ở trên, câu này rất thâm thúy và súc tích với ý nghĩa của "dân Nam" và "chọn." Ta biết "dân Nam" hàm ý tinh thần bất khuất, ý chí bền bỉ, và thái độ " ngạo nghễ" của dân Việt. Ý nghĩa "chọn" có thể không đặc sắc lắm ở giai đoạn thập kỷ 1960, và có thể còn bị coi là hơi gượng ép. Tuy nhiên, với tình trạng hiện nay tại Việt Nam và trong giai đoạn của cuộc đấu tranh dân chủ, "chọn" là một động từ độc đáo, tuyệt vời, và có ý nghĩa vô cùng thấm thía.

Đúng vậy, người dân Việt hiện nay tại Việt Nam có thể "chọn" làm người "dân Nam" hay không tùy ý. Họ có thể chọn tham gia phong trào dân chủ để "làm người huy hoàng," với tinh thần bất khuất, "tung xiềng vào mặt nhân gian," và "cười ngạo nghễ" trong "đau nhức không nguôi." Họ có thể sẽ phải trả một giá đắt cho sự lựa chọn của họ. Họ có thể sẽ phải nhọc nhằn "mồ hôi nhễ nhại" hoặc "ôm vết thương rỉ máu," ngồi "trên bàn chông," hoặc đi trên "lò lửa hồng," nhưng họ vẫn "cười đùa vang vang" và "cười dưới ánh mặt trời" vì họ biết Việt Nam còn nếu và chỉ nếu "triệu con tim còn là triệu khối kiêu hùng."

Ngược lại, họ cũng có nhiều lựa chọn khác ngoài chuyện tham gia phong trào dân chủ.Họ cũng có thể "chọn" đi theo chính quyền và giúp chính quyền đàn áp những người đấu tranh. Họ cũng có thể "chọn" không tham gia phong trào dân chủ và không giúp chính quyền, khoanh tay nhìn những người đấu tranh bị đàn áp. Họ cũng có thể "chọn" bỏ qua mọi chuyện, không đoái hoài gì đến vận mạng đất nước, và tiếp tục sống với cuộc sống riêng tư của họ. Cuộc sống riêng tư đó có thể sung túc, nhàn nhã, nhưng cũng có thể nghèo khổ, bận rộn.

Với sáu nhận xét trên, bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" quả thật là bài hát viết đặc biệt dành cho phong trào dân chủ hiện nay tại Việt Nam. Ta không rõ tại sao Nguyễn Đức Quang viết bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" với những ý tưởng và cách diễn tả bất chấp thời gian. Nhưng, như một tình cờ lịch sử may mắn, những gì gói ghém trong bài hát sống dậy một cách huy hoàng và mạnh mẽ, đem lại uy lực bất khả kháng cho phong trào dân chủ trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam hiện nay.

E. Kết Luận:

Ca khúc "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" là một bài hát nói lên sức mạnh của dân Việt với tinh thần bất khuất và sức chịu đựng bền bỉ trải qua những nhọc nhằn và đau thương trong cuộc đấu tranh chống lại thống trị bạo tàn. Nguyễn Đức Quang diễn tả ý tưởng một cách hữu hiệu qua cách dùng điệp ngữ, mỹ từ, và các kỹ thuật viết tài tình, vẽ ra hình ảnh cuộc đấu tranh sống động với cảnh tượng linh hoạt và đầy cảm xúc. Bài hát được dịch sang tiếng Anh với cùng số âm tiết cho mỗi câu để có thể hát với cùng nhạc điệu như bản tiếng Việt. Mục đích là để truyền bá cho những người nói tiếng Anh, kể cả các thế hệ sau này.

Bài hát được viết cách đây gần nửa thế kỷ nhưng, như lời tiên tri kỳ bí, lại áp dụng rất thích hợp cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay tại Việt Nam. Phong trào dân chủ nên dùng bài hát này để kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng lên trong cuộc nổi dậy chống lại bạo quyền cộng sản.

Nguồn: Cao-Đắc Tuấn/ Danlambao

Tin liên quan

 

Booking.com
Tiêu điểm

Đọc nhiều

Thảo luận

Quảng cáo