Chế độ đa quốc tịch tại Ba Lan
![]() |
Từ 15 tháng tám 2012 bắt đầu có hiệu lực những quy định mới của đạo luật về quốc tịch Ba Lan từ ngày 2 tháng tư 2009. Theo đó chế độ đa quốc tịch (nhiều quốc tịch) được thừa nhận đối với công dân Ba Lan.
Thật ra, không có văn bản nào chính thức công bố chế độ đa quốc tịch tại Ba Lan, mà qua một số nội dung luật, thì thấy toát lên điều đó. Đối với công dân Ba Lan, người ta không quan tâm đến việc, công dân Ba Lan có bao nhiêu quốc tịch, miễn sao công dân này thực hiện quyền và nghĩa vụ giống như người chỉ có một quốc tịch Ba Lan. Còn đối với người nước ngoài, kể từ khi luật mới đi vào đời sống, cho đến thời điểm hiện nay, có thể được nhập quốc tịch Ba Lan, mà không bị yêu cầu thôi quốc tịch gốc.
Nguồn gốc của chế độ đa quốc tich tại Ba lan có thể là do tình hình thực tế của nước này.
Trước hết, theo các số liệu thống kê, có đến 21 triệu người Ba Lan và người có gốc Ba Lan đang sống ngoài lãnh thổ Ba lan, còn dân số Ba Lan – số người Ba Lan sống tại Ba Lan – tính ra khoảng 38,1 triệu (năm 2008) – Wikipedia.
Đáng chú ý, theo Hiến pháp Cộng hoà Ba Lan, có hiệu lực từ ngày 2 tháng tư 1997: Công dân Ba Lan không thể mất quốc tịch, trừ phi tự từ bỏ nó (Điều 34, kh.2/2). Không thể trục xuất công dân Ba Lan ra khỏi nước cũng như cấm họ trở về nước (Điều 52, kh.4/5). Hiến pháp CH Ba Lan cũng quy định: Ai nằm dưới chính quyền Cộng hoà Ba Lan, thì hưởng tự do và các quyền được cam kết trong Hiến Pháp. Những ngoại lệ từ nguyên tắc này, có quan hệ đến người nước ngoài, do luật định (Điều 37, kh.1&2).Hơn nữa, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ của công dân Ba Lan (Điều 85, kh.1/30).
Theo đó, đủ để có thể tự chủ trong việc hoà nhập vào cộng đồng xã hội Ba Lan, xin hãy bớt chút thời gian tìm hiểu những điều cơ bản có liên quan, được trích dịch chuẩn từ Đạo luật về Quốc tịch Ba Lan có hiệu lực từ ngày 2 tháng tư 2009 cùng những quy định mới trong đó.
Chương 1 – Những quy định chung
Điều 2. Trong ngày Đạo luật có hiệu lực, công dân Ba Lan là những người có quốc tịch Ba Lan trên cơ sở các quy định cho đến nay.
Điều 3.
Công dân Ba Lan, có đồng thời quốc tịch của nước khác, có đối với Cộng hoà Ba Lan quyền và nghĩa vụ giống như người chỉ có quốc tịch Ba Lan.
Công dân Ba Lan không thể lấy quốc tịch của nước khác, được sở hữu đồng thời và quyền cũng như nghĩa vụ suy ra từ quốc tịch đó cùng với kết quả luật để biện bác đối với chính quyền Cộng hoà Ba Lan.
Điều 4. Quốc tịch Ba Lan được nhập:
từ hiệu lực của luật pháp;
qua việc cấp quốc tịch Ba Lan;
qua việc công nhận là công dân Ba Lan;
qua việc trở lại quốc tịch Ba Lan.
Điều 5. Việc ký kết quan hệ vợ chồng bởi công dân Ba Lan với người không phải là công dân Ba Lan không gây ra sư biến đổi trong quốc tịch vợ chồng.
Chương 2 – Nhập quốc tịch Ba Lan từ hiệu lực pháp luật
Điều 14. Người nhỏ tuổi nhập quốc tịch Ba Lan qua việc sinh ra trong trường hợp, khi:
ít nhất một người trong cha mẹ là công dân Ba lan;
sinh ra trên lãnh thổ Ba Lan, còn cha mẹ không ai biết, không có quốc tịch nào hoặc quốc tịch của họ không được xác định.
Điều 15. Người nhỏ tuổi nhập quốc tịch Ba Lan, khi được tìm thấy trên lãnh thổ Ba Lan, còn cha mẹ không ai biết.
Điều 16. Người nước ngoài nhỏ tuổi, được nhận làm con nuôi bởi một người hoặc nhiều người có quốc tịch Ba Lan, nhập quốc tịch Ba Lan, nếu việc nhận con nuôi hoàn chỉnh đã xảy ra trước khi tròn 16 tuổi. Trong trường hợp này được thừa nhận rằng, người nước ngoài nhỏ tuổi đã nhập quốc tịch Ba Lan từ ngày sinh ra.
Chương 3 – Cấp quốc tịch Ba Lan
Điều 18. Tổng thống Cộng hoà Ba Lan có thể cấp quốc tịch Ba Lan cho người nước ngoài.
Điều 19. 1/3. Việc cấp quốc tịch Ba Lan diễn ra theo đơn của người nước ngoài.
Điều 21. 1/5. Đơn xin cấp quốc tich Ba Lan được nộp qua trung gian tỉnh trưởng hoặc lãnh sự bằng đích thân hoặc bằng thư tín với chữ ký được cơ quan công quyền xác nhận.
Chương 4 – Công nhận là công dân Ba lan
Điều 30.
1. Công nhận là công dân Ba lan những người sau đây:
người nước ngoài lưu trú không ngắt quãng trên lãnh thổ Cộng hoà Ba Lan ít nhất từ 3 năm trên cơ sở giấy phép định cư, giấy phép thường trú dài hạn của Cộng đồng châu Âu hoặc trên cơ sở quyền cư trú vĩnh viễn, mà có ở Cộng hoà Ba Lan nguồn thu nhập ổn định và đều đặn cùng với cơ sở pháp lý của việc sở hữu nhà ở.
người nước ngoài lưu trú không ngắt quãng trên lãnh thổ Cộng hoà Ba Lan ít nhất từ 2 năm trên cơ sở giấy phép định cư, giấy phép thường trú dài hạn của Cộng đồng châu Âu hoặc trên cơ sở quyền cư trú vĩnh viễn, mà:
a) đang ở ít nhất từ 3 năm trong quan hệ vợ chồng đã được ký kết với công dân Ba Lan hoặc:
b) không có bất kỳ quốc tịch nào.
3) người nước ngoài lưu trú không ngắt quãng trên lãnh thổ Cộng hoà Ba Lan ít nhất từ 2 năm trên cơ sở giấy phép định cư, nhận được liên quan tới quy chế di tản, đã được cấp tại Cộng hoà Ba Lan.
người nước ngoài nhỏ tuổi, đang cư trú trên lãnh thổ cộng hoà Ba Lan trên cơ sở giấy phép định cư, giấy phép thường trú dài hạn của Cộng đồng châu Âu hoặc quyền cư trú vĩnh viễn, mà một người trong cha mẹ là công dân Ba Lan, còn người kia không có quốc tịch Ba Lan đã biểu thị đồng ý với sự công nhận này.
người nước ngoài lưu trú không ngắt quãng trên lãnh thổ Cộng hoà Ba Lan ít nhất từ10 năm thoả mãn đồng bộ các điều kiễn sau đây:
a) có giấy phép định cư, giấy phép thường trú dài hạn của Cộng đồng châu Âu hoặc quyền cư trú vĩnh viễn,
b) có tại Cộng hoà Ba Lan nguồn thu nhập ổn định và đều đặn cùng với cơ sở pháp lý của việc sở hữu nhà ở.
2. Người nước ngoài đang cố gắng xin công nhận là công dân Ba Lan, ngoại trừ người nước ngoài nói ở khoản 1 điểm 4 và 5, bắt buộc phải có hiểu biết tiếng Ba Lan, được xác nhận bởi giấy chứng nhận có tính công vụ, như đã nói tai điều 11a của Đạo luật về tiếng Ba Lan từ ngày 7 tháng mười 1999 (Dz. U. Nr 90, poz. 999, z późn. zm.), bởi chứng chỉ tốt nghiệp nhà trường tại Cộng hoà Ba Lan hoặc bởi chứng chỉ tốt nghiệp nhà trường ở nước ngoài giảng dạy bằng tiếng Ba Lan.
3. Để xác định xem người nước ngoài có lưu trú không ngắt quãng trên lãnh thổ Cộng hoà Ba Lan hay không, phải áp dung thích hợp quy định của điều 64 khoản 4 của Đao luật về người nước ngoài từ ngày 13 tháng sáu 2003 (Dz. U. z 2006 r. Nr 234, poz. 1694, z późn. zm.).
Điều 34. Đơn xin công nhận là công dân Ba Lan được nộp lên tỉnh trưởng.
Điều 36. 1/3. Quyết định trong việc công nhận người nước ngoài là công dân Ba Lan do tỉnh trưởng có thẩm quyền đối với nơi ở của người có quan hệ đến vụ việc đưa ra.
Từ Vác sa va, Nguyễn Quỳnh Giao – Tổng hợp, Ngô Hoàng Minh – Hiệu đính